Latest topics | » Vật lý 10 - ÔN TẬP HỌC KỲ ITue Dec 10, 2019 12:46 am by phannguyenquoctu » Những hình ảnh và kỷ niệm về Trường Nguyễn Khuyến XưaSat May 16, 2015 10:18 pm by phannguyenquoctu » Vat ly 10 - Mang Tinh theTue Mar 03, 2015 8:17 pm by phannguyenquoctu » Vật lý 10 - Cấu tạo chấtThu Feb 26, 2015 9:30 am by phannguyenquoctu » Chào mừng Năm mới 2015Sat Feb 14, 2015 1:06 pm by phannguyenquoctu » Những hình ảnh và kỷ niệm về Trường Nguyễn Khuyến NaySat Jan 31, 2015 5:11 pm by phannguyenquoctu » Vật lý 10 - Ngoại khóa - Động lượng và bidaFri Oct 17, 2014 12:40 pm by phannguyenquoctu » Vật lý 10 - Vòng xiếc (Tàu lượn)Fri Oct 17, 2014 12:21 pm by phannguyenquoctu » Vật lý 10 - Định luật III NewtonSat Oct 11, 2014 9:22 pm by phannguyenquoctu » Tuyển chọn những bài hát hay nhất về quê hương, miền tây Nam Bộ 2014 (Part 1)Fri Sep 26, 2014 11:32 am by mycomputer » Khai giảng Năm học 2014 - 2015Sun Sep 07, 2014 11:50 pm by phannguyenquoctu » 12CB 2012-2013Sun Sep 07, 2014 12:10 pm by phannguyenquoctu » Vật lý học, và Học Vật lýWed Aug 27, 2014 9:32 am by phannguyenquoctu » Cuộc thi học bổng toàn phần THPT MỹTue Aug 26, 2014 9:14 am by aectvn » Hệ thống chiếu sáng từ chai nướcWed Aug 13, 2014 11:05 pm by phannguyenquoctu |
Thống Kê | Hiện có 2 người đang truy cập Diễn Đàn, gồm: 0 Thành viên, 0 Thành viên ẩn danh và 2 Khách viếng thăm Không Số người truy cập cùng lúc nhiều nhất là 45 người, vào ngày Tue Oct 15, 2024 4:25 pm |
Statistics | Diễn Đàn hiện có 165 thành viên Chúng ta cùng chào mừng thành viên mới đăng ký: inest_mt
Tổng số bài viết đã gửi vào diễn đàn là 1777 in 612 subjects
|
|
| Nguyễn Hiến Lê: Dạy Và Tự Học | |
| | Tác giả | Thông điệp |
---|
phannguyenquoctu Admin
Tổng số bài gửi : 815 Join date : 19/10/2011
| Tiêu đề: Nguyễn Hiến Lê: Dạy Và Tự Học Mon Jan 09, 2012 2:01 am | |
| Nguyễn Hiến Lê: Dạy Và Tự Học
Posted: 07 Jan 2012 05:52 PM PST
Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Hiến Lê
Nguyễn Hiến Lê: Dạy Và Tự Học
Vương Trung Hiếu
Ghi chú: Vương Trung Hiếu, bút danh Thoại Sơn, là nhà văn, nhà báo, quê gốc An Giang. Trên vanchuongviet.org, nhân 100 năm Ngày sinh Nguyễn Hiến Lê, (08.01.1912 – 08.01.2012) anh đã cho đăng bài viết này, trích từ Kỷ yếu của Hội cựu học sinh Trường trung học Thoại Ngọc Hầu, Long Xuyên, An Giang. Một bài viết ngắn gọn, nhưng rất có ích cho các bạn trẻ. Xin phép được đăng lại nơi đây.
Chân thành cảm ơn anh Thoại Sơn.
Đỗ Hồng Ngọc.
Nguyễn Hiến Lê là một học giả nổi tiếng, tên tuổi của ông gắn liền với nhiều tác phẩm, trong đó có quyển sách dịch “Đắc nhân tâm” (vẫn thuộc loại bán chạy nhất hiện nay trên Internet). Người ta biết NHL viết sách, chứ không nhiều người biết ông đã từng là nhà giáo. Tháng 11 năm 1950 NHL nhận lời mời dạy học ở trường Trung học Thoại Ngọc Hầu, Long Xuyên, đến năm 1952 ông xin nghỉ, lên Sài Gòn mở nhà xuất bản, biên dịch sách, sáng tác và viết báo. Trong thời gian ở Long Xuyên, ông dạy môn Pháp văn, Việt văn, Đức dục, về sau thêm cả Hán văn (từ lớp 7 đến lớp 9 ngày nay). Quan điểm dạy học của ông tuy cách đây đã 60 năm, song vẫn còn hữu ích đối với thế hệ giáo viên trẻ ngày nay. Ông cho biết: “Tôi soạn bài kĩ, giảng cho rõ ràng, bắt học sinh làm nhiều bài tập,.. dù con bạn thân mà làm biếng tôi cũng rầy, dù con các người tai mắt trong tỉnh, nếu lười tôi cũng mắng nặng lời”. “Tôi cho rằng trong nghề dạy học, tư cách ông thầy quan trọng nhất: phải đứng đắn, nhất là công bằng; rồi lời giảng phải sáng sủa, có mạch lạc, muốn vậy ăn nói phải lưu loát, và soạn bài phải kĩ”. “Trong trường học, giáo sư nên khuyến khích những học sinh chịu đọc thêm sách, chứ đừng khen những trẻ giỏi học thuộc lòng. Trong các kỳ phát phần thưởng, đừng mua sách giáo khoa để phát, mà nên lựa những sách giúp học sinh mở mang thêm kiến thức”.
Về giáo dục NHL nêu vài vấn đề mà ngày nay chúng ta cũng cần phải suy nghĩ. Trong quyển Thế hệ ngày mai, NHL cho rằng nền giáo dục trong thời đại của ông “ quá thiên về trí tuệ, xao nhãng thể dục và đức dục”. Từ bậc tiểu học đến đại học, người dạy đã nhồi nhét quá nhiều những môn “để luyện trí”. “Phương pháp dạy ở trường có tính cách quá nhồi sọ”. “Môn gì cũng cần nhớ, nhớ cho thật nhiều, tới môn toán pháp mà cũng không dạy trẻ phân tích, bắt học thuộc cách chứng minh các định lý”. Từ đầu thế kỷ 20, Nhiều giáo sư, học giả Pháp đã phê phán lối học “không tập cho suy nghĩ ấy”. Nhiều nhà doanh nghiệp phàn nằn rằng phần lớn “ những học sinh ở Trung học hay Đại học ra không hiểu chút gì về công việc, không biết kiến thiết, sáng tạo, chỉ huy”.
Một điểm đáng chú ý khác: Vì sao học sinh không thích học? Ông cho rằng học sinh có thể không thích học môn nào đó vì cảm thấy không hợp. Có người thích văn nhưng buộc phải học Toán; có người thích vẽ nhưng buộc phải học Sử. Ngoài ra, “Ta cũng có thể ghét sự học ở trường vì nhiều giáo sư giảng bài như ru ngủ chúng ta, hoặc tới lớp thì bắt ta chép lia lịa từ đầu giờ tới cuối giờ mà không hề giảng cho một chữ, chép tới tay mỏi rời ra, không đưa nổi cây viết, nguệch ngoặc không thành chữ, rồi về nhà phải cố đọc, đoán cho ra để chép lại một lần nữa cho sạch sẽ. Ta cũng có thể ghét sự học ở nhà trường vì có những ông giáo, suốt năm mặt lạnh như băng, vẻ quạu quọ, hờm hờm, coi học sinh như kẻ tù tội, phải hành hạ cho đến mực, làm cho học sinh gần tới giờ thì lo lắng, mặt xám xanh, như sắp bị đưa lên đoạn đầu đài. Ta cũng có thể ghét sự học ở nhà trường vì kỷ luật, hình phạt của nó, vì những kỳ thi liên miên bất tận..”.
Điều quan trọng nhất trong cách dạy của NHL không chỉ nằm ở chuyên môn, mà còn ở cách hướng dẫn học sinh tự học. Vì phần lớn học sinh thời ấy “không biết cách ghi chép lời giảng của thầy, không biết cách học bài, làm bài, không biết cách học ôn, cách tìm tài liệu, không có một thời dụng biểu ở nhà. Họ không hiểu rằng cách học một bài ám đọc (récitation), khác cách học một bài toán; một bài sử, địa khác một bài sinh ngữ… Họ không có cả một sổ tay ghi những điều cần nhớ để thường coi lại”.
Vâng, tự học là điều cần thiết không chỉ khi ngồi trên ghế nhà trường, mà còn là phương tiện giúp ta đi tới thành công trên đường đời. Đừng nghĩ rằng khi có bằng cấp cao là đã thành công và không cần phải tự học nữa. NHL viết: “Bạn có bằng cấp tiến sĩ, thạc sĩ mà không học thêm thì suốt đời cũng chỉ là một tiến sĩ, một thạc sĩ. Paul Doumer 14 tuổi đã phải thôi học, tự học lấy rồi sau thành Tổng thống nước Pháp. Louis Bertrand xuất thân làm thợ mà lên ngôi Tổng trưởng”. Ở nước ta cũng không thiếu người nhờ tự học mà có danh vọng”. Thí dụ như Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Ngô Tất Tố, Bạch Thái Bưởi và Trương Văn Bền…đã thành công lớn trong nghề nghiệp của mình.
Cách tự học
NHL viết: “trên con đường tự học, tôi chẳng có chút hiểu biết, kinh nghiệm nào cả, phương tiện thật thiếu thốn, tốn công nhiều mà kết quả rất ít. Vì nghĩ vậy mà sau này tôi viết cuốn Tự học để thành công (sau đổi tựa là Tự học, một nhu cầu của thời đại) để hướng dẫn thanh niên tránh những lỗi lầm của tôi”. Ông cho rằng “Tự học cũng là một cuộc du lịch, du lịch bằng trí óc, một cuộc du lịch say mê gắp trăm du lịch bằng chân”. “Tự học còn là một thú vui rất thanh nhã nó nâng cao tâm hồn ta lên”. Vậy, muốn tự học, trước hết phải thấy nó là một chuyến “du lịch”, là “thú vui” mới có thể kiên trì theo đuổi. Theo NHL, người mới biết đọc, biết viết; người già cũng có thể tự học được. Quan trọng là có sức khỏe, thời gian và tin vào việc học của mình (có lợi cho bản thân, giúp ích cho người khác). “Nếu học 5-7 lần không thuộc, cũng đừng chán rồi bỏ cuộc. Học nhiều hơn nữa, có ngày sẽ thành công”.
Ông nghĩ rằng cái lợi của tự học là “tự do lựa môn học, lựa thầy học”. “Nếu chưa hiểu rõ một chương, ta có thể bỏ ra hàng tuần hàng tháng để học thêm…Nhờ vậy ta có nhiều thì giờ để suy nghĩ so sánh, tập xét đoán, giữ tư tưởng được tự do. Không ai nhồi sọ ta được, bắt ta phải lặp lại những điều mà ta không tin”. Tuy nhiên, ông cũng thấy cái hại của việc tự học là do “không ai dẫn dắt ta, nên ta không biết học cái gì”. Có người quyết học hết một bộ Bách khoa từ điển nhưng mới học khoảng một tuần thì bỏ ngang vì chán nản, không hiểu nhiều đoạn trong tự điển. “Có kẻ gặp cái gì đọc cái ấy… không tự lượng sức mình, chưa biết những sách đại cương về một môn nào đã đọc ngay những sách quá cao viết cho các nhà chuyên môn”. Đọc qua loa những điều mình thích nên không hiểu tường tận để áp dụng. “Học như vậy phí công vô ích”, do “không có một mục đích nhất định để nhắm, một chương trình hợp lý để theo”.
Ông cho rằng tự học “có mục đích gần và mục đích xa”. Học để có một chỗ làm, có cuộc sống tiện nghi là học với mục đích gần. Học để đủ tư cách làm chủ gia đình, một công dân và phần tử của nhân loại. Học để phát triển đức trí, giúp ít người khác mỗi ngày một nhiều hơn mới là mục đích xa. Nếu là giáo viên toán ta cũng nên đọc về kinh tế, chính trị; nếu là thợ thuyền cũng nên học về triết lý, luật khoa… “Nhà văn phải biết khoa học, vì khoa học giúp ta nhận xét, lý luận, hiểu vũ trụ hơn. Nhà khoa học cũng phải hiểu văn chương vì những áng văn thơ bất hủ nâng cao tâm hồn con người”… “Kẻ nào quá chuyên nghiệp, chỉ đọc những sách về ngành hoạt động của mình thì không khác chi đeo vào hai bên thái dương hai lá che mắt, không khác chi tự giam mình vào một phòng chỉ có mỗi một cửa sổ để thông ra ngoài.” Những cách tự học
Theo NHL, có hai cách tự học: học có người dạy và tự mình tìm tòi, học hỏi để hiểu biết thêm (theo ông, cách thứ hai “quan trọng hơn nhiều”).
Tự học (có người chỉ dẫn) là theo một lớp giảng công hay tư, một lớp hàm thụ hoặc nghe diễn thuyết.
+ Lớp giảng: Theo ông, “ở Âu, Mỹ, có rất nhiều trường công hay tư dạy những người lớn muốn học thêm” (từ tiểu học đến đại học). “Lại có những trường dạy một ngành chuyên môn như môn Tổ chức công việc, môn viết văn, làm báo, khoa nói trước công chúng, khoa nội trợ…”.
+ Lớp hàm thụ: học từ xa bằng những phương tiện thông tin đại chúng, “ học những trường này phải trả tiền vì đều là trường tư, hoặc bán công tư”.
+ Nghe diễn thuyết: nghe những diễn giả nói về đề tài mà mình muốn biết thêm. Tự học không có người chỉ dẫn là tập nhận xét và đọc sách…
+ Nhận xét: NHL viết: “Người tự học nào cũng phải tập nhận xét. Phần đông chúng ta không nhìn bằng mắt mà bằng óc, bằng tim”. Một giáo sư đại học bảo sinh viên tập trung nhìn những ông làm rồi bắt chước làm theo. Ông nhúng một ngón tay vào một ly nước rồi đưa lên miệng nếm. Mỗi sinh viên đều làm như vậy, nhưng lại nhăn mặt vì nhận thấy nước rất hôi thối. Sau khi họ nếm xong, vị giáo sư mỉm cười, bảo: “ Các cậu không nhận thấy ngón tay tôi đưa lên miệng không phải là ngón tay đã nhúng vào nước à”. Vị giáo sư nhúng ngón tay này vào nước nhưng lại nếm ngón tay kia nên không có cảm giác hôi thối, còn sinh viên thì…. Điều này cho thấy “họ đã không nhìn bằng mắt mà bằng óc. Óc họ tưởng tượng ra sao thì họ thấy vậy”. Tóm lại, muốn học hỏi thì ta phải tập nhìn bằng mắt, chứ đừng bằng óc hoặc tim. Trước khi nhận xét, phải có một chương trình: xét những điểm nào? điểm nào trước? điểm nào sau? Thí dụ, muốn nhận xét một cây, bạn phải: quan sát từng bộ phận của nó (từ gốc rễ đến cành lá); cây này mọc ở miền nào, hợp với loại đất nào; mùa nào trổ bông, có trái; cách trồng ra sao; ích lợi thế nào… Lập sẵn chương trình như vậy thì không sợ quên những chi tiết nhiều khi quan trọng. Trong khi nhận xét phải so sánh (như cây sao với cây dầu giống nhau chỗ nào, khác nhau chỗ nào?), phân tích (như xét một bông phải xét: đài, cành, nhụy, sắc hương). “Chịu nhận xét, tập chú ý vào những điều trông thấy thì tài nhận xét sẽ tăng lên. Mỗi ngày ta nên tập nhận xét vài lần… không tốn thì giờ mà chỉ trong vài ba tháng đã thấy nhiều kết quả”.
+ Đọc sách: theo một lớp giảng hoặc một lớp hàm thụ chỉ là biện pháp nhất thời. Muốn tự học suốt đời, thì phải đọc sách, vì thế “có thể nói tự học là đọc sách”. “Khi đọc tôi luôn luôn có một cây viết chì để đánh dấu những chỗ đáng nhớ, hoặc có thể dùng tới sau này; cuốn nào thường phải đọc lại thì tôi ghi những ý quan trọng cùng số trang lên mấy trang trắng”…“sách nào thường dùng tôi để riêng, sắp theo từng loại”.
Học từ dễ đến khó
Muốn học môn gì đó, cần phải tìm đúng sách rồi học từ dễ đến nâng cao dần. Không thể ngay từ đầu học những điều quá khó, vì như thế sẽ không hiểu, một thời gian sẽ chán nản rồi bỏ cuộc. Nhìn chung, những người như thế “không thành công vì không biết cách học”. Ho chưa biết những điều thường thức đã vội đọc ngay những sách cao đẳng. Họ “chưa có một khái niệm gì rõ ràng đích xác về đạo Phật mà đọc ngay kinh Tam Tạng! Tự học mà thiếu phương pháp như vậy thì 100 người có tới 95 người thất bại”.
Cách học ngoại ngữ
Ngoài tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức, bắt buộc phải học vào thời ấy, NHL còn học thêm tiếng Hán và tiếng Anh. Hồi nhỏ ông học chữ Hán cốt để “đọc được gia phả”, “chỉ nhớ mặt chữ, hiểu nghĩa là được rồi”. Sau khi học xong ngành Công chánh, trong thời gian chờ phân công nhiệm sở, ông lại tự học chữ Hán. “Mỗi ngày, buổi chiều tôi lại thư viện Trung Ương đường Trường Thi, mượn bộ Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh…rồi bắt đầu từ chữ A, tìm những từ và từ ngữ nào tôi đoán là thường dùng mà chưa biết thì tôi chép lại trong một tập vở. Tôi ở thư viện từ 3 đến 5-6 giờ chiều. Tối hôm đó và sáng hôm sau, tôi học hết những trang đã ghi đó; rồi chiều lại ra thư viện chép bài học sau. Mỗi tuần nghỉ một ngày để ôn lại những bài trong tuần. Học ba tháng, được độ ba ngàn từ”. Về sau NHL tự học thêm nữa để có thể viết sách về văn học Trung Quốc. Về tiếng Anh, ông học chủ yếu là hiểu nghĩa từ và văn phạm, học để đọc tài liệu nước ngoài, để viết và dịch sách chứ không chủ trương học để nói lưu loát. Theo ông, “muốn hiểu một ngoại ngữ thì phải dịch ra tiếng Việt”. “Khi dịch, bắt buộc ta phải tra tự điển; câu nào dịch rồi mà ý nghĩa không xuôi, có điểm nào vô lí hoặc mâu thuẫn với một số câu ở trên thì bắt buộc ta phải soát lại xem mình dịch sai ở chỗ nào”.
Viết sách để tự học
Từ 1949 đến 1953, NHL “làm việc rất nhiều, vừa dạy học, vừa học, vừa viết sách, không có thì giờ để hưởng nhàn”. Ông dạy học, tự học môn Tổ chức, tiếng Anh và văn học Trung Hoa. Ngoài ra ông còn ghi danh học một số lớp hàm thụ. Chính nhờ bài học từ những lớp này NHL đã có tài liệu để viết sách (quyển Nghề viết văn, Hương sắc trong vườn văn và nhiều sách Học làm người).
Theo ông, “viết sách là tự ra bài cho mình làm. Học mà không làm bài thì chỉ là mới đọc qua chứ không phải học.” Và ông cho rằng “khi viết nên nhớ mục đích của ta là để tìm hiểu chứ không phải cầu danh. Đừng cầu danh thì danh sẽ tới”. Sức làm việc của ông thật đáng nể, theo Wikipedia, “mỗi ngày ông làm việc 13 tiếng đồng hồ (6 tiếng để đọc tài liệu và hơn 6 tiếng để viết). Thời gian biểu này được áp dụng một cách nghiêm ngặt không ai được vi phạm kể cả chính ông, nhờ vậy mà ông đã hoàn thành một khối lượng công việc, tác phẩm nghiên cứu, dịch thuật đồ sộ”. NHL cho biết: “nhiều người, từ bạn bè đến độc giả bảo tôi sống như một nhà tu khổ hạnh. Tôi không biết các nhà tu khổ hạnh có thấy khổ hay không khi họ nhịn ăn, nhịn uống, nhịn ngủ, … chứ riêng tôi, chẳng tu hành gì cả, không thấy lối sống của tôi với sách vở là khổ”. Trong lời nói đầu của quyển “Đời viết văn của tôi”, NHL viết: “Đời tôi có thể tóm tắt trong hai chữ HỌC và VIẾT. Hai việc đó liên quan mật thiết với nhau gần suốt đời, tôi VIẾT ĐỂ HỌC và HỌC ĐỂ VIẾT”. Có lẽ, nhờ quan niệm như thế nên NHL để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm đồ sộ, có giá trị cao về học thuật, đó là mảng sách về triết học và lịch sử. Mảng sách về văn học của ông cũng khá phong phú, chủ yếu là văn học Trung Quốc, bên cạnh đó là một số quyển tiểu thuyết dịch từ tiếng Anh và Pháp. Tuy nhiên, mảng sách mà NHL được nhiều người biết đến, đem lại dang tiếng cho ông chính là loại “sách học làm người”. Ông viết và dịch nhiều sách về mảng này, trong đó có một quyển đã làm “thay đổi hẳn cuộc đời của một thanh niên hiếu học nhưng nhà nghèo”, người mà sau này đã trở thành bác sĩ và cũng khá nổi tiếng, đó là bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Quyển sách ấy có tựa đề là Kim chỉ nam của học sinh, một quyển mà NHL muốn “giúp học sinh biết cách học”. Ông khởi sự viết quyển này vào tháng 2 năm 1951, tức giai đoạn ông còn dạy học ở trường Thoại Ngọc Hầu, Long Xuyên. Sau khi quyển sách ấy được phát hành, nhiều phụ huynh và giáo sư đã hết lời khen ngợi sự hữu ích của nó. Trong tờ Bách Khoa số 20-4-75, Đỗ Hồng Ngọc viết: “Kim chỉ nam đã mở cho tôi chân trời mới, đọc xong, tôi thấy gần gũi với ông (NHL) kỳ lạ. Có những điều tôi đã thoáng nghĩ, đã từng làm nhưng vì thối chí ngã lòng, vì không được hướng dẫn nên không đạt được mấy kết quả. Ông đã hệ thống hoá, đặt ra những nguyên tắc giúp cho việc học đỡ mệt, đỡ tốn thì giờ mà được nhiều kết quả hơn. Điều quan trọng là sách trình bày những phương pháp thực hành, không có những lý thuyết viễn vông, nhàm chán”. Dẫu sống ở Sài Gòn nhiều năm, song Nguyễn Hiến Lê vẫn rất nhớ cái nơi ông đã từng dạy học, nơi mà ông đã về sống những năm cuối đời. NHL tâm sự: “ Long Xuyên đúng là quê hương thứ hai của tôi, mà bây giờ tôi quyến luyến với nó hơn quê hương thứ nhất nhiều”.
Vương Trung Hiếu
Trách nhiệm của người bác sĩ trong thời buổi hiện tại Posted: 07 Jan 2012 02:16 AM PST
Ghi chú:
Những ngày đầu năm 2012 này, bác sĩ Lê Ngọc Dũng lại chịu khó đánh máy và gởi thêm một bài viết nữa của BS Nguyễn Hưu Phiếm do anh lưu giữ được, trong cuốn Mấy Lời Khuyên Sinh Viên Y Khoa (Trung tâm học liệu BGD, 1972) như “một món quà Tết”, đến với chúng ta.
Tài liệu này đã được viết từ 40 năm trước nhưng vẫn còn rất có giá trị. Mong các bạn dành chút thì giờ để đọc và rút ra cho mình những bài học từ đó.
Một lần nữa, trân trọng cảm ơn Bs Lê Ngọc Dũng.
Đỗ Hồng Ngọc.
TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI BÁC SĨ TRONG THỜI BUỔI HIỆN TẠI BS Nguyễn Hữu Phiếm (1910-1977)
Y học cao thượng ở chỗ trách nhiệm Duhamel
Trách nhiệm của người bác sĩ , nói cho đúng ra, không phải là một vấn đề mới mẻ, bằng cớ là từ trên bốn ngàn năm nay, tại Babylone, vua Hammourabi đã ban hành một đạo luật mang tên ông để thưởng phạt những y sĩ trong khi hành nghề, thưởng tiền bạc nếu khỏi bệnh và chặt tay chân nếu bệnh nhân mang tật hoặc phải thiệt mạng. Ảnh hưởng của đạo luật Hammourabi đã lan rộng ra khỏi Babylone và trong Cựu Ước kinh ,các triết gia Do Thái đã nói : “Có vay có trả, răng đền răng, mắt trả mắt”.
Tuy nhiên ta phải công nhận là cho mãi cuối thế kỷ thứ 19, quan niệm về trách nhiệm của người bác sĩ vẫn không hề thay đổi . Điều đó xét cho cùng cũng không có gì lạ, bởi y học trên hai ngàn năm , hoàn toàn gần như chỉ chuyên về miêu tả, người bác sỉ ở thế kỷ trước, tuy biết rõ cơ thể học, nhân thể sinh lý học và cách phân chia bệnh ra từng loại, nhưng đến khi chữa bệnh , thì đành phải bó tay, ngoại trừ trường hợp bệnh nhân mắc bệnh sốt rét cơn (paludisme) thì mới cho uống Quinine (tìm ra năm 1820)
Đừng nói đâu xa , cách đây mới khoảng 30 năm, những tiến bộ của phép trị liệu vẫn tương đối không đáng kể, người bác sĩ có thể định bệnh được một cách chắc chắn, nhưng đến khi chữa thì không chữa nổi. Nhưng tình thế ngày nay khác hẳn.
Ngày nay, y học đã tiến một bước rất xa, ngoài sức tưởng tượng của con người và hầu như cướp cả quyền tạo hóa, nào mổ tim, thay tim, mổ óc, cắt phổi, ghép thận, ghép mắt….vv
Nào chỉ có thế thôi !Ngày nay y học đã phát minh ra những thứ thuốc có thể thay đổi hoàn toàn tâm tính của con người ta. Ngày nay ai cũng biết nhờ y học mà phụ nữ có thể hạn chế được sinh đẻ. Tóm lại, thật đúng như lời nhà bác học Jean Rostand đã nói:”Ngày nay khoa học đã khiến chúng ta trở nên những bậc thánh thần trước khi chúng ta xứng đáng làm người”.
Và cũng chính bởi có những tiến bộ quá mau, tới mức phi thường, huyền ảo của khoa học nên vai trò của người thày thuốc xứng với danh từ đó, ở thời đại này, cần được xét lại, nhất là những trách nhiệm của họ, càng ngày càng nhiều, càng ngày càng phức tạp và nặng nề gấp bội trước, vì thuốc càng hiệu lực bao nhiêu lại càng nguy hiểm bấy nhiêu.
********
Trước khi đề cập tới vấn đề trách nhiệm của người bác sĩ , thiết tưởng cũng nên định nghĩa trách nhiệm là gì ? Thường thường vấn đề trách nhiệm chỉ được nêu ra khi có một biến cố nào đó xảy ra, gây thiệt hại tới tài sản hoặc tính mạng của một hay nhiều người. Khi ấy pháp luật sẽ can thiệp để phân xử và phán quyết có lỗi lầm hay không, có lỗi sẽ bị trừng phạt. Tuy nhiên đối với người thày thuốc ngoài trách nhiệm trước pháp luật ra, còn có trách nhiệm tinh thần, trách nhiệm trước tòa án lương tâm nữa. Loại trách nhiệm này, hàng ngày người thày thuốc phải lãnh trong khi hành nghề, khác hẳn trách nhiệm trước pháp luật.
Như trên vừa nói, ngày nay y học đã có một quyền lực ghê gớm, ngoài sức tưởng tượng của con người. Ngày nay hầu hết các bệnh nhiễm trùng có thể trị được, nhiều bệnh mà ngày xưa kia người bác sĩ phải bó tay, bây giờ khỏi là thường, như bệnh thương hàn, bệnh lao, bệnh phong….
Nhiều chứng suyễn nặng có thể chữa được. Nhờ tiếp máu mà hàng ngày trên chiến trường các thương binh và những người bị ngộ độc, hoặc mắc nhiều bệnh khác được thoát chết. Tuy nhiên ,ta cũng nên biết rằng thuốc càng nhiều, càng công hiệu , nhất là những loại thuốc hóa học , lại càng độc, càng nguy hiểm.
Ngày nay trong khi hành nghề , người thày thuốc bắt buộc phải có những quyết định hoặc hành động mà hậu quả cực kỳ quan trọng. Bất cứ một trụ sinh nào, dù chích, dù uống, cũng có thể gây phản ứng được, nhiều khi thật bất ngờ.Thuốc kháng đông (anticoagulant) có thể làm xuất huyết được. Ấy là chỉ nói tới một vài thứ thuốc mà bệnh nhân thường dùng hàng ngày mà không cần có toa bác sĩ.
Ngay đến những thuốc rất thông thường như Aspirine , nếu dùng quá liều hoặc dùng lâu, cũng có thể làm xuất huyết. Những thuốc để trị chứng đau nhức mà công chúng thường dùng không cần hỏi ý kiến bác sĩ như phenacetine , đã từng làm nhiều người chết vì làm cho thận đau , thuốc pyramidon có thể làm cho máu biến chất.
Nhiều tai nạn lưu thông xảy ra chỉ vì người lái xe đã lạm dụng thuốc an thần. Nhiều lực sĩ đã bỏ mạng vì dùng quá nhiều loại thuốc kích thích, chúng ta hẳn chưa quên vụ sản phụ sanh ra quái thai vì trong khi thai nghén đã dùng thalidomide. Nhiều bệnh mới đã xuất hiện chỉ tại dùng thuốc bừa bãi, tỉ dụ cortisone đã làm cho loét bao tử, xương cốt tự nhiên gẫy, hoặc làm cho phát điên. Một vài loại sulfamide đã gây ra bệnh ngoài da chết người.
Không riêng gì thuốc trụ sinh mới gây những phản ứng bất ngờ như trên vừa nói mà bất cứ thuốc nào tuy không thuộc loại thuốc độc, dù uống hay chích (chích mạch hay chích thịt ) cũng có thể gây nguy hiểm đến tính mạng dược. Có người đã chết vì chích sinh tố B1 (Bevitine)
Ấy chính vì hàng ngày người bác sĩ phải hành nghề trong những hoàn cảnh bất trắc như thế, chính vì lúc nào cũng phập phồng lo sợ mỗi khi cho bệnh nhân dùng thuốc và biết rằng thuốc càng có hiệu lực thì lại càng nguy hiểm, chính vì lúc nào cũng cảm thấy trách nhiệm của mình nặng nề nên người bác sĩ phải luôn luôn học hỏi. theo dõi những tiến triển của y khoa, phải có óc phê bình chớ đừng ham mới , chuộng lạ, nhất là phải có nhiều kinh nghiệm, nhiều từng trải, và sau hết, phải thận trọng, đầu óc lúc nào cũng phải nhớ tới câu châm ngôn cổ trong y học: primum non nocere (trước hết đừng làm hại)
********
Người bác sĩ có trách nhiệm từ khi khám bệnh, định bệnh, cho đến lúc kê toa hoặc bắt tay hành động. Khám bệnh qua loa, khám tắc trách, quên hỏi một chi tiết để định bệnh cho chính xác là phạm lỗi. Trách nhiệm khi sử dụng thời giờ: cần phân biệt bệnh năng nhẹ, để đi thăm trước hay thăm sau;nếu là bệnh cấp cứu thì tức tốc đi ngay, bất kể thời tiết hoặc đêm hôm, hi sinh cả giấc ngủ, bữa ăn, dù chính mình trong người không được khỏe. Trách nhiệm khi giải thích cho bệnh nhân , sao cho cặn kẻ, rành mạch, để họ đừng hiểu lầm. Trách nhiệm khi biên toa, biên cho rõ ràng để người dược sĩ có thể đọc được, nhất là để cho bệnh nhân đừng uống quá liều. Tôi nhớ có lần kê cho một bệnh nhân mỗi ngày uống 6 viên thuốc, và ghi rõ trong toa cách 4 giờ uống một viên. Thế mà thân chủ của tôi đã uống ngay một lúc 6 viên, nhưng may không việc gì. Căn dặn cẩn thận trên giấy tờ mà còn thế, huống hồ là không căn dặn, hoặc viết thoắng không ai đọc nổi.
Người ta thường than phiền về chữ bác sĩ khó đọc, tôi xác nhận điều đó , và cho rằng người thày thuốc nào, khi cho toa mà không biên rõ ràng, không dặn kỹ cách thức dùng thuốc- nhất là loại thuốc độc- nếu lỡ xảy ra tai nạn, thì người thày thuốc đó có lỗi.
Trách nhiệm khi khuyên bệnh nhân nghỉ ngơi, giải trí,hoặc đổi gió , đổi nghề. Trách nhiệm khi cấp y chứng thư: phải cân nhắc từng chữ , từng câu. Một vài bác sĩ thiếu lương tâm chức nghiệp, đã bị hội đồng quốc gia Y sĩ đoàn khiển trách vì đã cấp y chứng thư mà không hề khám đương sự (như y chứng thư để lấy bằng lái xe tự động-giấy khám sức khỏe) hoặc bị truy tố trước pháp luật vì không thận trọng (cấp giấy cho phép dùng độc dược, ma túy…)
Lại còn trách nhiệm khi hành động nữa. Ngày xưa muốn định bệnh, người bác sĩ chỉ cần hai bàn tay và khối óc, nhưng ngày nay ,bởi có những tiến bộ của khoa học nên có nhiều phương pháp khám nghiệm rất chính xác, nhiều kỹ thuật cực kỳ tinh xảo, với biết bao máy móc phức tạp mà người bác sĩ không thể nào không biết được, và nếu quên không áp dụng kịp thời một phương pháp cần thiết để định bệnh rồi chữa cho thật sớm, tức là phạm lỗi vậy.
Nhưng cũng như thuốc men, không một phương pháp nào là không nguy hiểm đến tính mạng như: nhiếp ảnh động mạch, thông tim, thông ống dẫn tiểu…vv.Ngay đến chích thuốc gì vào tĩnh mạch, cũng có thể làm cho tim ngừng đập. Ở trong bệnh viện người bác sĩ cũng có bổn phận dạy y tá không những về mặt kỹ thuật mà cón huấn luyện họ trên phương diện luân lý và đạo đức nữa.
Ngần ấy thí dụ cũng đủ cho ta thấy trách nhiệm của người thày thuốc sống ở vào thời đại này nặng nề là dường nào. Có người sẽ bảo: nếu biết có thể nguy hiểm đến tính mạng, tốt hơn hết là đừng làm gì cả, nhưng “Nếu ai ai cũng nghĩ như vậy thì y học sẽ thụt lùi 50 năm, và hàng trăm thứ bệnh, ngày nay đáng lẽ có thể chữa khỏi, sẽ trở thành những bệnh nan y” (Hamburger)
Thành thử người bác sĩ không những phải chịu trách nhiệm về những gì mình làm mà còn phải chịu trách nhiệm về những gì mình không làm nữa.
Vẫn hay rằng người bác sĩ không thể chữa được mọi bệnh, hoặc tự mình làm lấy được tất cả các công việc, nhũng họ phải làm những gì cần thiết để tìm cho ra bệnh và đẻ chữa.Và muốn tránh được phần nào những tai nạn bất ngờ, người bác sĩ, như trên vừa nói cần phải cân nhắc, đắn đo mỗi khi cho toa, và nhất là vì có những tiến bộ quá mau của y học nên người bác sĩ phải theo dõi những tiến triển của y học, phải có đủ khả năng chuyên môn để chữa bệnh, và sau hết phải chịu trách nhiệm về mọi hành động của mình. Đây là một khía cạnh mới mẻ về trách nhiệm của người bác sĩ trong thời buổi hiện tại. Thật vậy! Cách đây mới khoảng 30 năm , những phương pháp thám chẩn và trị liệu rất thô sơ và ít ỏi, có thể đếm trên đầu ngón tay được và người thày thuốc chỉ cần chịu khó một chút là có thể hiểu biết hết.
Tôi nhớ hồi còn là sinh viên , được đọc cuốn sách của Ch.Fiessinger nhan đề: Trị bệnh bằng 20 thứ thuốc (La therapeutique en 20 medicaments) nhưng từ một phần tư thế kỷ nay, không có năm nào , tháng nào, có khi tuần lễ nào là không thấy xuất hiện một phương pháp định bệnh mới, hoặc một thứ thuốc mới để chữa bệnh. Ngày nay không một người bác sĩ nào có thể nhớ xuể tên các dược phẩm mà hàng ngày các cô trình dược viên đem chào tại phòng mạch, hoặc có thì giờ đọc những quảng cáo thuốc mới sản xuất. Còn nói về những bài báo mỗi tuần đăng trên các tạp chí y học đứng đắn, và những bản trần tình có giá trị do các danh sư viết rồi gửi tới các hội y học, nhiều đến nỗi giá để cả một ngày ngồi đọc nhan đề không thôi, cũng tài nào đọc hết.
Nói về sách y khoa, thời xưa , nghĩa là các đây mới vài chục năm, một cuốn sách có thể dùng được trong một thời gian tương đối khá lâu (năm mười năm là ít) nhưng ngày nay, sách đã đắt thì chớ, nhiều khi chưa đọc hết mà chỉ trong vòng 6 tháng, sách đó đã thành cổ rồi.
Bởi thế người bác sĩ suốt đời phải là một sinh viên hăng say học hỏi, và chính để bổ khuyết những thiếu sót của người bác sĩ nên ngày nay, tại các quốc gia tân tiến, y giới đã tổ chức cho bác sĩ học những lớp gọi là hậu đại học (enseignement post-universitaire) để họ biết những tiến triển của y khoa , dồng thời để đào tạo một số bác sỉ chuyên khoa , không ngoài mục đích phục vụ quần chúng, đem lại cho người ốm một bảo đảm.
Ngày nay , làm thuốc mà chỉ có lương tâm thôi chưa đủ. Có lương tâm mà không có học cũng vô ích. Có lòng nhân đạo, vị tha , bác ái, mà không có đủ khả năng chữa bệnh, cái đó rất nguy hiểm, nhất là khi gặp bệnh nặng. bởi vậy “ Bổn phận đầu tiên của người bác sĩ trong thời buổi này là phải có học thức vững chắc, phải luôn luôn đổi mới” (Jean Bernard). “Giá trị luân lý và đạo đức, theo lời giáo sư jean Gosset phải đi đôi với giá trị chức nghiệp, dốt nát và lừa bịp đều như nhau cả. Bổn phận của người bác sĩ là phải biết đến nơi đến chốn và phải khéo léo về mặt kỹ thuật.”
Vẫn hay rằng bể học mênh mông , không một ai dám tự hào là biết hết, nhưng không biết mà không nhận thấy là mình không biết, đó là điều không thể tha thứ được. Rât tiếc là từ thời Hippocrate tới nay, không có một quy luật nào ghép sự dốt nát của người thày thuốc vào một trong những tội lỗi nặng.
Ngoài những trách nhiệm nói trên ra, người bác sĩ còn phải chịu trách nhiệm khi xét đoán nữa.
Đã là thày thuốc, không ai là không mong cho bệnh nhân của mình chóng khỏi, không ai là không muốn dùng những thứ thuốc mới nhất, để được tiếng là thày thuốc giỏi, nhưng nếu những thứ thuốc kia mới chỉ được báo chí ca tụng (dù là báo y học) mà chưa được các danh sư đứng đắn thí nghiệm và công nhận là không nguy hiểm, lại hiệu nghiệm, thì người bác sĩ phải thận trọng, đắn đo, cân nhắc, không được nhắm mắt cho bệnh nhân dùng, hoặc chiều theo thị hiếu của gia đình họ, để khỏi tiền mất tật mang, và có khi làm cho bệnh nặng thêm lên.
Chúng ta hiện đang sống trong một kỹ nguyên mà kỹ thuật và tốc lực là 2 thiên thần mới nên người thày thuốc khi chữa bệnh thường gặp trở ngại này: dùng thuốc men quá hấp tấp, bừa bãi, có khi táo bạo, những thuốc đó phần lớn chưa được nghiên cứu kỹ càng trên căn bản khoa học, có khi chưa đem ra thí nghiệm (cho súc vật) và vì vậy rất nguy hiểm, dễ gây ra tai nạn .
Vậy bổn phận của người bác sĩ là phãi điều tra kỹ lưỡng để hiểu rõ dược tính của những thứ thuốc mà mình kê cho thân chủ mình, nhất là phải có óc phê bình, phải chọn lọc ,xét đoán.
********
Trên đây là những trách nhiệm cá nhân mà hàng ngày người y sĩ phải lảnh trong khi hành nghề. Tuy nhiên, không phải chỉ có trách nhiệm cá nhân mà thôi. Ở thời đại này , không riêng gì trên lãnh vực y khoa mà trong mọi hoạt động , muốn đạt được kết quả mỹ mãn, cần phải có sự tham gia , đóng góp của nhiều người, tức là phải có một ê kíp để làm việc.
Nói cho đúng ra, đây không phải là vấn đề mới mẻ. Hãy lấy thì dụ một bác sĩ làm việc trong bệnh viện: tuy rằng dưới quyền chỉ huy cũa ông có một số giảng sư, phụ tá, sinh viên nội và ngoại trú, có sự phân công rất rõ rệt, nhưng lỡ khi có tai nạn ( do một sinh viên nội trú gây ra chẳng hạn) thì người bác sĩ trưởng phòng phải chịu trách nhiệm, không những trước lương tâm của mình mà còn trước pháp luật nữa.
Nhưng hồi xưa, người ta nhận thấy trong ê kíp làm việc đó có tôn ti trật tự, và người cầm đầu ê kíp có đủ khả năng chuyên môn, có thể kiểm soát được tất cả công việc của cộng sự viên của mình, vì trước khi lên tới bậc thày người bác sĩ đó đã tốn biết bao công phu học tập rồi. Nhưng ngày nay công việc của một ê kíp trong một phòng giải phẫu chằng hạn thật vô cùng phức tạp. Chung quanh vị bác sĩ trưởng có một số rất đông chuyên viên, nào người chuyên đánh thuốc mê, nào người chuyên về hồi sinh, về sinh vật học, hóa học, bệnh lý cơ thể, tim, quang tuyến..vv Không một người nào kể trên là không cần thiết. Người cầm đầu ê kíp đó không thể nào làm lấy một mình được, không tài nào kiểm soát được công việc của từng người một, mà chỉ biết những nguyên tắc đại cương của mỗi ngành thôi. Thành thử trách nhiệm của người chỉ huy đó phức tạp vô cùng. Vẫn hay rằng trước khi quyết định đã có sự thảo luận kỹ càng giữa ông ta và các cộng sự viên rồi, nhưng dù sao, quyết định tối hậu bao giờ cũng là công việc của một người thôi. Như vậy đủ rõ trách nhiệm của người thày thuốc cầm đầu một ê kíp nặng nề là dường nào.
TRÁCH NHIỆM TẬP THỂ
Khi nói tới trách nhiệm của người bác sĩ trong thời buổi này, không thể không đề cập đến vai trò quan trọng của y học xã hội, đã có từ 30 năm nay, nhất là ảnh hưởng của ngành đó tới nền kinh tế quốc dân.
Người bác sĩ thường phân vân khi phải dung hòa quyền lợi cá nhân của thân chủ mình và quyền lơi chung của xã hội. Tỉ dụ: một người vừa khỏi bệnh và cần nghỉ ngơi trong một thời gian để dưỡng sức, nếu người bác sĩ điều trị quá dễ dãi, cho họ nghỉ nhiều tất sẽ thiệt hại cho năng suất cũng như tài chánh của quốc gia. Tại một vài nước, cơ quan An ninh xã hội đã ngiên cứu biện pháp trừng phạt những bác sĩ thuộc vào loại vô trách nhiệm trên.
TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
Ngoài trách nhiệm tinh thần, cá nhân và tập thể ra , người bác sĩ còn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật nữa. Có trách nhiệm trước lương tâm thôi chưa đủ, pháp luật cần phải bệnh vực quyền lợi của người bệnh , cần đem lại một phần nào cho họ một đảm bảo, ngăn ngừa những hành động cẩu thả, sơ xuất của người bác sĩ nữa. Tuy nhiên hai loại trách nhiệm: tinh thần và pháp lý không giống nhau hẳn.
Trách nhiệm tinh thần như vừa kể trên, hàng ngày , trong khi hành nghề, người thày thuốc luôn phải gánh vác. Trái lại pháp luật chỉ can thiệp khi nào, đối với đệ tam nhân, người bác sĩ phạm lỗi thôi. Nói cho đúng ra , nhiều khi chính vì sợ bị truy tố trước pháp luật mà người bác sĩ phải thận trọng, không được dùng thuốc quá liều, không được bó bột quá chặt, đừng để quên chiếc gạc hoặc kìm, cặp, khi giải phẫu một bệnh nhân v.v… Nhưng nếu lúc nào người thày thuốc, trong khi chữa bệnh, nhất là bệnh nặng, mà tâm trí cứ mãi nghĩ đi nơi khác, lo sợ bị tù tội, phải bồi thường, họ sẽ không dám có sáng kiến nữa, họ không dám thử một phương pháp trị liệu mới trong khi thâm tâm họ, họ biết có thể làm hơn được để cho bệnh nhân mau khỏi. Trái lại nếu họ làm liều, họ có thể bị phạt vạ, vì đối với pháp luật “rủi ro bi coi như khinh tội” (Jean Guitton) Có một số luật gia đã thông cảm những nỗi khó khăn trên của người thày thuốc và cho phép họ săn sóc bệnh nhân theo những dữ kiện đã thâu lượm được của khoa học (données acquies de la science). Những thế nào là dữ kiện đã thâu lượm được ?
Không nói ai cũng rõ ngày nay y học đã tiến rất xa , và sở dĩ tiến được là nhờ có những bác sĩ đã không theo lề lối cũ , đã dám tiên phong, áp dụng những phương pháp táo bạo mới , nghĩa là không dựa vào những dữ kiện cổ điển. Tỉ dụ: người bác sĩ đầu tiên, khi đóng chiếc đinh đầu tiên lên một chiếc xương gãy, hoặc mổ tim, ghép thận…. họ đâu có dựa vào dữ kiện đã thâu lượm nào ?
Bởi vậy, nhà làm luật đã thay thế câu: dữ kiện đã thâu lượm được bằng câu: dữ kiện hiện hữu của khoa học (donnees actuelles de la science) mập mờ hơn. Tuy nhiên công thức này cũng không làm cho y giới thỏa mản, nên một đề nghị khác –mềm dẻo hơn- đã được đưa ra: người bác sĩ tùy theo từng trường hợp, phải cố gắng hết sức mình săn sóc bệnh nhân. Ngoài ra để trút bớt trách nhiệm của người bác sĩ , luật pháp khuyên họ nên hỏi ý kiến bệnh nhân (hay gia đình) có khi bắt họ làm cam kết sẽ không khiếu nại hoặc đòi tiền bồi thường nếu lỡ ra, sau khi giải phẫu hoặc dùng một thứ thuốc mới, bệnh nhân có mệnh hệ nào. Nhưng thử hỏi một người không hề có một kiến thức nào về y học, làm sao có thể ví với một người đã từng học thuốc lâu năm lại có nhiều kinh nghiệm , và trút trách nhiệm kiểu đó cho họ là giả dối.
Thành thử người bác sĩ không thể rũ trách nhiệm cho những người không phải là thày thuốc mà phải có can đảm, có khi khổ tâm nhận lãnh TRÁCH NHIỆM về phần mình, phải cố gắng chữa như khi chữa người thân yêu của mình. Tóm lại; PHẢI COI TRÁCH NHIỆM TINH THẦN NĂNG HƠN TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ.
TINH THẦN TRÁCH NHIỆM
Bởi có những trách nhiệm quá nặng nề như vậy nên người bác sĩ, xứng với danh từ đó, cần được chuẩn bị để lãnh lấy. Không những không sợ, không những không trốn tránh mà còn vui lòng nhận lảnh trách nhiệm của mình, dù biết trước mình sẽ lo âu, phải hi sinh bữa ăn giấc ngủ , và có khi bị tù tội nữa.
Nhưng chính những giờ phút nguy hiểm lại là những giờ phút sung sướng nhất trong đời người thày thuốc (như khi đẻ khó mà cứu được mẹ tròn con vuông).
“Chính nhờ có trách nhiệm mà y học được coi như một nghề cao quý nhất “ (Duhamel). Nhưng tinh thần trách nhiệm không phải người nào cũng sẵn có dễ dàng. Đối với người bác sĩ, tinh thần đó được rèn rèn luyện, hun đúc từ lâu, khi còn là sinh viên y khoa, nhờ được thực tập trong 6, 7 năm liền trong bệnh viện, nhờ sống trong một bầu không khí không sao quên được, vì hàng ngày tiếp xúc với cái đau , cái buồn và …cái chết.
Chính trong thời gian làm nội trú, hoăc trong những đêm trục, gặp khó khăn, hoặc đứng trước một tai nạn bất thình lình xảy ra, mình không trông cậy được vào ai hết, phải tự mình xoay sở lấy, phải có một quyết định gấp, một hành động kịp thời, chính trong những giờ phút đó, người sinh viên mới ý thức được rõ rệt những trách nhiệm của một nghề đầy nguy hiểm, nhiều lụy hơn vinh. Bởi sau mỗi quyết định, mỗi cử chỉ kia, có một tính mạng- tính mạng của một con người- đang bị đe dọa.
Thật không gì vất vả bằng nghề thuốc, nhưng cũng không có sự huấn luyện nào cao đẹp bằng, cao đẹp ở chỗ người bác sĩ luôn luôn tôn trọng và bảo vệ sự sống còn của con người, không phân biệt giai cấp tôn giáo, chủng tộc,v.v… và đối với họ , chỉ có trách nhiệm trước lương tâm mới đáng kể thôi.
Vẫn hay rằng ở vào thời buổi này, ở trong nhiều giới, có những người trốn trách nhiệm, hoặc thiếu tinh thần trách nhiệm, từ việc làm đến lời nói, có khi không hiểu trách nhiệm là gì cả, nhưng riêng đối với người bác sĩ , việc lảnh trách nhiệm là một lẽ sống của họ, và nếu không có gian nguy, nếu không có trách nhiệm tinh thần cá nhân thì không thể nào có y học được.
KẾT LUẬN
Ngày nay người bác sĩ phải là người có học thức căn bản vững chắc, hiểu rộng, biết nhiều. Khoa học càng tiến bộ, người bác sĩ càng phải được huấn luyện kỹ càng chu đáo.
Không những phải có kiến thức về khoa học, có nhiều kinh nghiệm mà phải là người có văn hóa để biết xét đoán, phê bình , bởi trong y học, không có bệnh mà chỉ có con bệnh, không bệnh nhân nào giống bệnh nhân nào cả. Ngoài ra, người bác sĩ cũng phải là người có nhân phẩm, đạo đức, có thế mới làm trọn nhiệm vụ cao cả của mình là phục vụ đồng bào, bảo vệ sức khỏe và sinh mạng của quần chúng.
You are subscribed to email updates from Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc To stop receiving these emails, you may unsubscribe now. Email delivery powered by Google Google Inc., 20 West Kinzie, Chicago IL USA 60610
| |
| | | | Nguyễn Hiến Lê: Dạy Và Tự Học | |
|
Trang 1 trong tổng số 1 trang | |
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |